Thành phố Halle nằm ở phía nam của tiểu bang Sachsen-Anhalt nước Đức, dọc theo dòng sông Saale, vì vậy khi nhắc tới nơi này, ta thường biết tới nơi đây với cái tên đặc trưng là Halle (Saale). Đây là một trong ba thành phố trọng điểm của bang Sachsen-Anhalt và là nơi đặt những trụ sở, những cơ quan hành chính đại diện cho tiểu bang Sachsen-Anhalt. Mật độ dân số của thành phố rơi vào khoảng 238.358 người (số liệu tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2018).
Vị trí địa lý của thành phố Halle
Halle là thành phố có diện tích lớn nhất và dân cư đông nhất của tiểu bang Sachsen-Anhalt. Năm 2017, nó đã được xếp hạng ở vị trí thứ 31 của các thành phố Đức về dân số và từ đó trở thành thành phố lớn thứ tư trong danh mục các tiểu bang mới thành lập, thành phố lớn thứ 5 của vùng Đông Đức.
Các thành phố lớn gần đó tạo thành vùng giao thương cùng phát triển bao gồm Leipzig (khoảng 30 km về hướng đông-nam), Berlin (khoảng 130 km về phía đông-bắc) và Dresden (khoảng 150 km hướng đông-nam). Ngoài ra, đây còn là một phần của vùng đô thị Leipzig- Halle với dân số hơn 1 triệu người.
Kinh tế tại thành phố Halle
Halle đóng vai trò là một trọng điểm về giao thông cũng như nút thắt kinh tế của cả khu vực miền trung nước Đức. Nơi này là thành phố tập trung phát triển các ngành công nghệ cao, tập trung vào các ngành như là năng lượng tái tạo (erneuerbaren Ernergien), phương tiện cơ động bằng điện (Elektro-Mobilität), cơ khí đặc dụng (Spezial-Maschinenbau), công nghệ cảm biến (Sensorik), công nghệ sinh học (Biotechnologie) cũng như các ngành công nghiệp truyền thông (Medien) và sáng tạo (Kreativbranche).
Các công ty trong ngành dịch vụ (Dienstleistung), công nghiệp thực phẩm (Nahrungsmittelindustrie) và đồ uống (Genussmittelindustrie), hậu cần (Logistik), thiết kế (Design) và Công nghệ thông tin (IT) cũng được đặt tại thành phố Halle. Hai khu công nghệ Weinberg Campus và khu công nghiệp Star Park A14 – Halle (Saale) là hai khu vực đầu tư phát triển lớn tại thành phố này.
Khu công nghiệp Star Park A14 – Halle (Saale), với quy mô 230 hécta, nằm trên đường cao tốc A14, tại sân bay Leipzig / Halle. Các công ty mang tầm quốc tế như Relaxdays, Greatview, doanh nghiệp eBay và bưu điện Deutsche Post được đặt tại đây.
Công viên công nghệ lớn thứ hai của Đông Đức Weinberg Campus tập trung vào sự phát triển trong ngành công nghiệp năng lượng mặt trời, công nghệ sinh học và nano, có nguồn vốn đầu tư rơi vào khoảng một tỷ euro. Hơn 100 công ty và viện với khoảng 5.600 nhân viên đã chuyển tới công tác, làm việc và sinh sống tại đây.
Thời tiết và khí hậu thành phố (Salle)
Nhiệt độ không khí trung bình ở Halle-Kröllwitz là 9,1 ° C, lượng mưa hàng năm là 451 mm. Trên cơ sở dữ liệu từ Dịch vụ thời tiết Đức, Halle được xếp hạng thứ hai trong bảng xếp hạng 50 thành phố lớn của Đức được khảo sát, với lượng mưa trung bình hàng năm thấp thứ 2, chỉ là 480,5 mm/năm.
Hệ thống các trường đại học và những tổ chức giáo dục ở thành phố Halle
Các trường đại học là nơi đào tạo ra 7.600 nhà khoa học tương lai. Thành phố Halle là trụ sở của trường Đại học Martin Luther Halle-Wittenberg, học viện Leopoldina và hai trường đại học khác.
Với Tổ chức Francke được thành lập bởi August Hermann Francke vào năm 1698, đây được coi là điểm khởi đầu cho giáo dục xã hội – nhân văn ở Đức.
Thành phố này còn là nơi có một trong những trường đại học lâu đời nhất ở Đức, tiêu biếu là Đại học Martin Luther Halle-Wittenberg (Martin-Luther-Universität Halle-Wittenberg), Đại học của Giáo hội Âm nhạc Halle (Evangelischen Hochschule für Kirchenmusik Halle)và Đại học Nghệ thuật Burg Giebichenstein (Burg Giebichenstein Kunsthochschule).
Trường đại học Martin-Luther-Universität Halle-Wittenberg
Nếu bạn có ý định du học Đức tại Halle, nhất định nên tham khảo qua Martin-Luther-Universität Halle-Wittenberg (viết tắt là MLU). Đây là một trường đại học công lập, định hướng nghiên cứu ở bang Sachsen-Anhalt. MLU cung cấp các khóa học tiếng Đức và quốc tế (tiếng Anh), cấp bằng học thuật như BA, BSc, MA, MSc, bằng tiến sĩ.
Tại trường MLU, các bạn có thể theo học các ngành sau:
- Khoa Thần học
- Khoa Luật và Kinh tế
- Khoa Dược
- Khoa Triết học I (Nghiên cứu xã hội và văn hóa, Lịch sử)
- Khoa Triết học II (Ngôn ngữ cổ đại và hiện đại, Nghiên cứu truyền thông, Âm nhạc)
- Khoa Triết học III (Paedagogy)
- Khoa Khoa học tự nhiên I (Hóa sinh, Sinh học, Dược)
- Khoa Khoa học tự nhiên II (Vật lý, Hóa học, Toán học)
- Khoa Khoa học tự nhiên III (Nông nghiệp, Địa chất, Khoa học máy tính)
Thành phố này đồng thời là trụ sở của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Leopoldina (Stadt Sitz der Nationalen Akademie der Wissenschaften Leopoldina) và Quỹ Văn hóa Liên bang (Kulturstiftung des Bundes), mà nước Đức có đại diện quốc tế về khoa học quốc gia và văn hóa.
Những danh lam thắng cảnh ở thành phố Halle
Halle là thủ phủ bảo tồn và lưu giữ những nét văn hóa của bang Sachsen-Anhalt. Những địa điểm tham quan và du lịch nổi tiếng của tại nơi này có thể kể đến như:
- Nhà hát thành phố (Stadttheater Halle) (được xây vào khoảng năm 1905)
- Nhà hát lớn (Opernhaus Halle) (2009)
- Nhà hát mới (Sprechtheater)
- Nhà múa rối (Puppentheater)
- Viện âm nhạc Staatskapelle Halle với dàn nhạc giao hưởng lớn thứ hai nước Đức.
- Nhà hát Thalia Theater – nơi vui chơi của trẻ em và thanh thiếu niên
- Steintor-Varieté – nhà hát lâu đời nhất ở Đức
- Franckesche Stiftungen-ngôi nhà gỗ lớn nhất châu Âu
- Viện bảo tàng sô cô la (Schokolademuseum)
Thể thao ở thành phố Halle
Đội bóng đá Hallescher FC Wacker 1900 có một số tầm quan trọng trong khu vực trước Thế chiến thứ hai. Tại giải vô địch Đức, Wacker lọt vào bán kết năm 1921 và tứ kết năm 1928. Đội kế nhiệm trở thành nhà vô địch Đông Đức vào các năm 1949 và 1952 dưới tên của ZSG Union và BSG Turbine Halle.
Từ những điều này, ngày nay Turbine Halle và Hallescher FC đã phát triển. Trong thời đại của Cộng hòa Dân chủ Đức, câu lạc bộ sau này (với tên gọi Chemie Halle) là trụ cột ở giải hạng nhất và giành chức vô địch Cúp quốc gia vào các năm 1956 và 1962. Cầu thủ nổi bật nhất là Bernd Bransch 72 lần thi đấu quốc tế, người đã cùng Chemie trong những năm 1960 và 1970. Những ngày này, Hallescher FC thường chơi ở giải hạng ba.
Câu lạc bộ thể thao tổng hợp SV Halle, có nguồn gốc từ Chemie Halle, đã tạo ra một số huy chương vàng Olympic và nhà vô địch thế giới đáng chú ý, chủ yếu ở các môn thể thao dưới nước và hàng hải, chẳng hạn như vận động viên bơi lội Kornelia Ender đã giành được bốn huy chương vàng Olympic năm 1976 và Andreas Hajek đã giành được bốn huy chương vô địch thế giới rowing từ năm 1998 đến 2001.
Đội bóng rổ của câu lạc bộ – ngày nay được gọi là Lions và tập trung vào đội nữ thi đấu ở giải hạng nhất quốc gia – đã giành được 5 chức vô địch nam và 10 chức vô địch nữ của Cộng hòa Dân chủ Đức. Vị trí của Hallesher FC rất gần ga xe lửa.